Bài viết 暫時不能作用。
ĐẤU THẦU - MUA SẮM CÔNG

Bình chọn

Theo bạn thông tin nội dung website thế nào ?

Phong phú đa dạng
Dễ sử dụng
Hữu ích

483 người đã tham gia bình chọn

Thống kê truy cập

Số lượng và lượt người truy cập

  • Online 2

  • Hôm nay 173

  • Tổng 3.158.478

Lãnh tụ Hồ Chí Minh - Người khai mở quan hệ Việt - Mỹ

Font size : A- A A+
 Trong lịch sử Việt Nam hiện đại, đấu tranh ngoại giao luôn là mặt trận quan trọng. Trên phương diện này, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã tỏ rõ tài năng kiệt xuất. Người khéo vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm ngoại giao trong lịch sử với tinh thần độc lập, chủ động “dĩ bất biến, ứng vạn biến” giúp Hồ Chí Minh định hướng chính xác và thực hiện thành công công tác ngoại giao trong từng thời kỳ cách mạng.

Nơi đầu tiên Trung úy Uyliam Sao ẩn nấp. Ảnh: Hoàng Quảng Uyên

Ngày 28/1/1941, sau 30 năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Tại Pác Bó (Cao Bằng) lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định: ‘‘Năm 1945 Việt Nam độc lập”. Để có độc lập, Người cùng với Trung ương Đảng tích cực chuẩn bị cho sự thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong đó có việc tranh thủ các mối quan hệ quốc tế.
Thời kỳ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mới về nước, thế chiến lần thứ II đang chuyển sang giai đoạn mới, báo hiệu sự thất bại của chủ nghĩa phát xít, nhất là sau trận phá vây Mát-xcơ-va và tiêu diệt quân phát xít Đức ở vòng cung Cuốc-xcơ của Hồng quân Liên Xô. Thời kỳ cuối của cuộc thế chiến lần thứ II, phe Đồng minh gồm: Liên Xô, Mỹ, Anh có ý kiến khác nhau về nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề các nước thuộc địa; riêng vấn đề Đông Dương cũng có nhiều chủ trương khác nhau, có chủ trương cho Đông Dương hưởng chế độ “thác quản quốc tế” - nghĩa là có một số nước bảo trợ một thời gian, sau đó sẽ trở thành một nước độc lập, trong khi đó Anh ủng hộ Pháp quay lại Đông Dương. Còn Mỹ chủ trương “thác quản” nhưng do tình hình chưa có lợi nên đã dung hòa các chủ trương. Song được một thời sau đó tình hình thay đổi, Mỹ thể hiện rõ quan điểm đối với cuộc chiến ở Đông Dương.
Ngày 16/4/1944, Mỹ tuyên bố: “Mỹ sẽ không nên có hành động nào đối với bất cứ tổ chức kháng chiến nào về mối quan hệ Đông Dương” và chờ “khi tình hình sáng tỏ hơn sẽ có quyết định sau”.
Sau đó, chiến sự ở Đông Dương làm gián đoạn mối quan hệ Đông Dương và Mỹ, do tổ chức tình báo của Đồng minh ở Đông Dương bị phá vỡ, một số còn lại thì nằm im.
Mỹ không nắm được tình hình quân Nhật ở Đông Dương, từ bố trí lực lượng cho đến các hoạt động..., đặc biệt là lo ngại khi quân Nhật tấn công Côn Minh (Trung Quốc), là nơi tập trung lực lượng lớn của Đồng minh mà chủ yếu là quân đội Mỹ. Với những tác động đó, Mỹ đã thay đổi chủ trương. Lúc đó tướng Wedemeyer, Tổng chỉ huy quân Mỹ đóng tại Trùng Khánh (Trung Quốc) lệnh cho Đại tá Hoppener phụ trách cơ quan phục vụ chiến lược OSS thu thập tin tức tình báo về quân đội Nhật ở Đông Dương thông qua bất cứ tổ chức nào.
Cuối năm 1944, sau hơn một năm lãnh tụ Hồ Chí Minh sang Trung Quốc công tác để tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, nhưng bị nhà cầm quyền của Tưởng Giới Thạch bắt giam mới trở về đến Pác Bó (ngày 20/9/1944), Người kịp thời chỉ thị hoãn cuộc khởi nghĩa do hội nghị liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng chủ trương nhưng chưa đủ điều kiện cho khởi nghĩa thành công. Lãnh tụ Hồ Chí Minh cho chủ trương mới là đấu tranh phải từ hình thức chính trị lên hình thức vũ trang. Song, hiện nay chính trị trọng hơn quân sự, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang, ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân…
Mọi công việc đều cấp bách, quan trọng nhưng làm sao tranh thủ được sự giúp đỡ của quốc tế, để thế giới hiểu được cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam cũng đang chống phát xít. Đặc biệt là làm sao tiếp xúc được với cơ quan Đồng minh do Mỹ chỉ huy đang đóng tại Côn Minh (Trung Quốc). Đây là vấn đề lớn mà lãnh tụ Hồ Chí Minh quan tâm và nhìn thấy từ lâu tầm quan trọng của nó, năm 1942, Người chủ động đi quan hệ nhưng đang trên đường đi thì bị bắt oan.
Đầu năm 1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đến Côn Minh (Trung Quốc), nơi có căn cứ các nước Đồng minh, cũng là trụ sở Không đoàn 14 của Mỹ dưới sự chỉ huy của tướng Sênôn. Chủ trương của Người là chủ động đặt quan hệ với Mỹ, làm cho người Mỹ hiểu rõ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống phát xít Nhật… và tranh thủ sự giúp đỡ từ phía Mỹ…
Từ Cao Bằng, lãnh tụ Hồ Chí Minh lên đường cùng với “món quà” đặc biệt để “tặng” Mỹ là Trung úy phi công Uyliam Sao (William Shaw), được Mặt trận Việt Minh cứu thoát khi nhảy dù xuống Cao Bằng (tháng 11/1944) do máy bay gặp nạn và bị quân phát xít Nhật, thực dân Pháp ráo riết săn lùng.
Với “món quà” đặc biệt được “trời cho” để tặng Mỹ, lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định trở lại Trung Quốc nhằm thiết lập mối quan hệ với Đồng minh, đặc biệt là Mỹ, tìm sự hậu thuẫn trong cuộc chiến với Nhật. Từ Pác Bó, lãnh tụ Hồ Chí Minh trực tiếp đưa Trung úy Uyliam Sao sang Trung Quốc, đến Côn Minh, mở ra một cánh cửa bang giao mới.
Sau khi chuẩn bị những công việc cần thiết, lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng đoàn lên đường, rút kinh nghiệm chuyến đi trước và đề phòng bất trắc, lãnh tụ Hồ Chí Minh chia đoàn làm 3 tốp, một tốp đi trước dò đường, tốp giữa dẫn Trung úy Uyliam Sao, tốp cuối có nhiệm vụ bảo vệ phía sau. Các đồng chí Phùng Thế Tài, Đinh Đại Toàn đi cùng lãnh tụ Hồ Chí Minh. Đi được vài ngày thì đoàn đến Tịnh Tây (Trung Quốc).
Lúc đó Trần Bảo Thương là Quân đoàn trưởng của quân Tưởng Giới Thạch có thể đã nhận được chỉ đạo của cấp trên nên gây khó khăn, trở ngại cho đoàn, làm cho đoàn mất chỗ dựa là chúng “hớt tay tên” không cho lãnh tụ Hồ Chí Minh trực tiếp đưa Uyliam Sao về Côn Minh, mà Trần Bảo Thương tự đưa Uyliam Sao đi bằng ô tô, máy bay đến Côn Minh. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đột nhiên mất chỗ dựa, có thể còn mất cả một phần an toàn nữa nhưng vẫn không nản chí mà quyết thực hiện theo kế hoạch là phải đến Côn Minh, phải gặp được bộ chỉ huy Đồng Minh do Mỹ chỉ huy đang đóng ở đó. Cuộc hành trình gặp nhiều gian khổ, mất gần một tháng thì lãnh tụ Hồ Chí Minh đến Côn Minh trong tình trạng sức khỏe yếu, sốt cao.
Khi lãnh tụ Hồ Chí Minh đến Côn Minh thì Trung úy Uyliam Sao đã lên đường về Mỹ, song Uyliam Sao để lại báo cáo về việc được lực lượng Việt Minh cứu thoát, về phong trào lớn mạnh của Việt Minh, Uyliam Sao còn bày tỏ tình cảm sâu sắc với Việt Minh và cá nhân lãnh tụ Hồ Chí Minh. Như vậy là mục đích trực tiếp đưa Uyliam Sao đến và qua việc bàn giao Uyliam Sao để gặp tướng Sênôn đã không thành. Nhưng lãnh tụ Hồ Chí Minh vẫn kiên trì chờ đợi và tìm mọi cách để tiếp cận với tướng Mỹ.
Trong thời gian chờ đợi, lãnh tụ Hồ Chí Minh tranh thủ gặp kiều bào Việt Nam tại Vân Nam, nắm tình hình hoạt động của các tổ chức, cá nhân yêu nước đang hoạt động tại Côn Minh. Người còn dành thời gian đến Phòng thông tin chiến tranh (OWI) tìm hiểu và nghiên cứu tài liệu, Sở Chỉ huy Sư đoàn Không quân số 14, Cơ quan phục vụ chiến lược (OSS), Cơ quan cứu trợ không quân (AGAS).
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, người Mỹ tìm đến lãnh tụ Hồ Chí Minh. Ngày 17/3/1945, Trung úy SáclơPhen là người trực tiếp chỉ huy nhóm tình báo Đồng minh ở Việt Nam lúc đó, theo giới thiệu của AGAS đã gặp lãnh tụ Hồ Chí Minh. Cuộc gặp gỡ sau đó vào ngày 20/3/1945, hai bên thỏa thuận phương thức hợp tác. Phía Việt Minh đồng ý cung cấp địa bàn hoạt động. Phía Mỹ nhận cung cấp phương tiện thông tin liên lạc, người sử dụng và giúp Việt Nam huấn luyện người sử dụng.
Ngày 29/3/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh và tướng Sênôn được bố trí gặp nhau, tướng Sênôn cảm ơn Việt Minh cứu phi công Mỹ, lãnh tụ Hồ Chí Minh thì nhấn mạnh trách nhiệm của những người chống phát xít là phải giúp đỡ Đồng Minh. Lãnh tụ Hồ Chí Minh nhận từ tướng Sênôn tấm ảnh chân dung với dòng chữ “Bạn chân thành của ông Claice L. Chennault”. Những cuộc tiếp xúc với hầu hết các cơ quan của Mỹ đóng trên đất Trung Quốc có thể coi là thông điệp của lãnh tụ Hồ Chí Minh báo cho thế giới biết rằng: Mặt trận Việt Minh do lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo có tư cách là một bộ phận của Mặt trận Đồng Minh đang cùng thế giới, cùng Mỹ chống phát xít và cánh cửa quan hệ Việt - Mỹ đã được mở.
Lãnh tụ Hồ Chí Minh tranh thủ mối quan hệ này để làm nhiều việc cho cách mạng. Thông qua cách ứng xử của lãnh tụ Hồ Chí Minh mà người Mỹ hiểu cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, phía Mỹ với tư cách là một nước Đồng Minh chống phát xít, thông qua sự chỉ đạo của Bộ Tổng chỉ huy ở Trùng Khánh (Trung Quốc) đã giúp Việt Minh về cán bộ, thuốc men, súng ống…
Khi lãnh tụ Hồ Chí Minh trở lại Cao Bằng, Mỹ cử hai cán bộ kỹ thuật báo vụ là Ph.Tan và Mácxin mang theo những thiết bị thông tin liên lạc để giúp cách mạng Việt Nam. Mỹ giúp đào tạo người sử dụng điện đài, cung cấp một số vũ khí, thuốc men, hai lần dùng máy bay giúp Mặt trận Việt Minh của Việt Nam rải 8 vạn tờ truyền đơn bằng tiếng Việt xuống miền Bắc Việt Nam. Việc máy bay Mỹ rải truyền đơn của Việt Minh đã đề cao uy tín của Việt Minh đang đứng về phe Đồng Minh cùng Mỹ đánh Nhật.
Từ mối quan hệ đó, Mỹ lập được mạng lưới vô tuyến điện từ Hà Nội đến Sài Gòn. OSS bố trí một tổ vô tuyến điện bên cạnh lãnh tụ Hồ Chí Minh để liên lạc giữa OSS và Hồ Chí Minh. Qua các cơ quan của Mỹ, lãnh tụ Hồ Chí Minh gửi nhiều thư và tài liệu cho Liên hiệp quốc, các chính khách Mỹ và quốc tế để tranh thủ sự ủng hộ của họ cho cách mạng Việt Nam. Ngày 30/6/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh trả lời Thiếu tá Patti rằng Người đồng ý tiếp nhận một nhóm người Mỹ nhảy dù xuống Việt Bắc.
Ngày 17/7/1945, một đội người Mỹ nhảy dù xuống bãi Kim Long, Tân Trào (Tuyên Quang) do Thiếu tá E.Tômát phụ trách, mang theo điện đài và vũ khí nhiều loại. Lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập bộ đội Việt - Mỹ do đồng chí Đàm Quang Trung chỉ huy, lúc đầu có 200 người. E.Tômát là Tham mưu trưởng đơn vị cùng nhiều người Mỹ khác huấn luyện sử dụng vũ khí mới của Mỹ. Ngày 16/8/1945, bộ đội Việt - Mỹ đánh Nhật ở Thái Nguyên, sau đó về Hà Nội.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có nhiều nguyên nhân, trong đó có công tác ngoại giao của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Người đã biết rất rõ nên tranh thủ các lực lượng để tăng cường cho cách mạng, cô lập cao độ kẻ thù. Và khi có lực lượng mạnh mẽ của toàn dân, thời cơ đến, Người quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc đưa cách mạng đi đến thành công.
Vậy là từ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cánh cửa quan hệ Việt - Mỹ đã được lãnh tụ Hồ Chí Minh khai mở, mà Cao Bằng là mốc khởi đầu cho mối quan hệ đó. Lãnh tụ Hồ Chí Minh tranh thủ mối quan hệ này để làm nhiều việc có lợi cho cách mạng. Thông qua cách ứng xử của lãnh tụ Hồ Chí Minh mà người Mỹ hiểu về nhân dân Việt Nam, hiểu về cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã để lại trong lòng những người bạn Mỹ tình cảm sâu sắc không chỉ lúc đó mà cả sau này.

Tác giả bài viết: Đinh Ngọc Viện
Nguồn tin: Theo http://baocaobang.vn/

More